Đàn Tứ
Đàn tứ tròn
BÁN ĐÀN TỨ TOÀN QUỐC - NHẠC CỤ DÂN TỘC
Đàn Tứ - Trong suốt quá trình lịch sử, Việt Nam đã hình thành một kho tàng nhạc cụ dân tộc đa dạng và phong phú. Mỗi loại nhạc cụ đều có nét đặc sắc và ý nghĩa riêng phản ánh phong cách và lối sống người Việt. Một trong những nhạc cụ nổi bật nhất đó là chiếc đàn tứ Việt Nam. Hãy cùng Nhạc Cụ dân tộc tìm hiểu về loại đàn đặc biệt này nhé.
Giới thiệu về đàn tứ
Tên gọi đàn tứ xuất phát từ cấu trúc của loại đàn này, vì có bốn dây nên người ta đặt tên là “đàn tứ” (tứ là bốn). Tuy nhiên, đàn tứ còn có nhiều tên khác như đàn đoản (đàn ngắn) vì loại đàn này ngắn hơn so với đàn nguyệt hay đàn nhật (đàn mặt trời) vì thùng đàn có hình tròn, tạo thành một cặp với đàn nguyệt (đàn mặt trăng). Đàn tứ có 2 loại: đàn tứ thùng (loại mới) và đàn tứ tròn (loại cổ truyền).Công dụng của đàn tứ
Đàn tứ có màu sắc tươi sáng, phù hợp để biểu diễn những âm thanh sôi động, mạnh mẽ. Khi dùng nên sử dụng dây tô hoặc dây nilon để có thể tạo ra chất trữ tình trong bài nhạc. Đàn tứ có 10 phím được gắn theo thứ tự thất cung chia đều, không có các quãng nửa cung như các kiểu đàn thất cung của phương Tây, ví dụ: guitar, violin,... Khi biểu diễn, nghệ sĩ nhấn dây để tạo ra âm thanh theo ý muốn. Tay phải sử dụng các kỹ thuật như ngón vê, ngón phi còn tay trái thì thường dùng các kỹ thuật ngón nhấn, ngón vuốt, ngón luyến và đánh chồng âm giống như khi sử dụng đàn tỳ bà. Đàn tứ thường được sử dụng trong các ban nhạc cổ truyền như cải lương hay hát bội (còn gọi là hát bộ). Nhiệm vụ chính của đàn tứ trong dàn nhạc dân tộc là hòa tấu, người chơi đàn tứ thường ngồi ngoài cùng phía bên phải. Đối tượng chủ yếu sử dụng loại đàn này là người Kinh, một vài dân tộc thiểu số như Mường, Pu Péo cũng có nhạc cụ này nhưng với cấu tạo đơn giản hơn. Khác với người Kinh, ở miền núi, người ta thường hay sử dụng đàn tứ để độc tấu, cách độc tấu đàn tứ cũng khác biệt nhiều so với người Kinh.
Cấu tạo đàn tứ
Cấu tạo đàn tứ thông thường có các phần sau: - Bầu vang: đây là bộ phận để tăng âm có hình hộp tròn và dẹt giống như đàn nguyệt. Đường kính của mặt đàn và hậu đàn khoảng 35cm và phải bằng nhau. Thành bầu khoảng 7cm, thành bầu của người dân tộc cũng tương tự nhưng sẽ mỏng hơn. - Mặt đàn: mặt đàn tứ được làm từ gỗ để mộc, khác với các dân tộc khác thì đàn tứ của người H’Mông có thêm hoa văn và lỗ thoát âm. Ở phần dưới mặt đàn có bộ phận để móc dây hay còn được coi là ngựa đàn. - Cần đàn: cần đàn được làm từ gỗ cứng, ngắn và to bản. Các phím đàn hơi cao trên suốt cần đàn và mặt đàn, cách một khoảng tương đối đều nhau. - Đầu đàn: đầu đàn có 4 trục để mắc dây đàn, ở mỗi bên có 2 trục. - Dây đàn: trong 4 trục mắc dây, chỉ sử dụng 2 trục để móc 2 dây trên mỗi trục. Trước đây, dây đàn được làm bằng tơ se, ngày nay thì người ta thường dùng dây nilon. Đàn tứ có âm vực rộng lên đến 2 quãng tám. Với loại đàn tứ cổ truyền thì có 4 dây bao gồm: 2 dây to đồng âm và 2 dây nhỏ đồng âm. Vì thế nên ngày nay các nghệ nhân chỉ mắc dây trên 2 trục đàn. Tuy nhiên, có những người cách tân gắn 4 dây để có 4 âm khác nhau giống như đàn Mandolin.